TỔNG QUAN VỀ SINH LÝ HỌC THẦN KINH
Cảm Giác Ngoại Biên
Khi mô bị tổn thương, có một phản ứng viêm tạo ra cơn đau. Mức độ của đau theo sau liên quan tới nhiều điều kiện của vết thương, như dạng, độ lan rộng và vị trí, sự phân bố dây thần kinh trong mô, và pha viêm. Trong hệ thống nhận cảm, tổn thương mô có thể tự nó tăng đáp ứng và/hoặc giảm những tới kích thích không độc, gọi là chứng tăng cảm đau (hyperalgesia). Chứng bệnh nay có thể giải thích do sự nhạy cảm của các cơ quan nhận cảm ( chứng tăng cảm đau sơ cấp) và bởi cơ chế hệ thống thần kinh trung ương (chứng tăng cảm đau thứ cấp).
Khi không có tổn thương mô, sự kích hoạt của sợi A-delta hoặc C tạo ra một cơn đau thoáng qua. Cơn đau này được coi là một thông báo sinh lý. Khi có tổn thương mô, các sợi đến có thể được kích hợp với cường độ thấp hơn bình thường, và chất lượng cơn đau có thể kéo dài và dữ dội hơn. Hiện tượng này một phần gây ra bởi sự nhạy cảm của các cơ quan cảm thụ, bao gồm sự tăng các hoạt động tự phát.
Ở vùng mô bị tổn thương có rất nhiều chất gây viêm có thể tăng nhạy cảm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên các cơ quan cảm giác. Các chất viêm này có thể được phóng thích bởi các tế bào mô tại chỗ, chạy và tác động các tế bào miễn dịch, các tế bào tuần hoàn và cơ trơn nội mạc, cũng như các tế bào hệ thống thần kinh ngoại vi.
Sự Nhạy Cảm Trung Tâm
Sau khi tổn thương mô ngoại biên, có một chướng ngại đến từ các sợi C tạo bởi sự viêm nhiễm các mô ngoại biên, làm giảm ngưỡng tới và phá huỷ tự nhiên các sợi đến. Khi nơ ron nhận lệnh thứ cấp nhận được thông tin về chướng ngại nhạy cảm,nơ ron này có thể cũng bị kích thích. Kết quả của hiện tượng này dẫn tới sự nhạy cảm hoá trung tâm.13 akeest quả của sự nhạy cảm hoá trung tâm kích thích sự khuyếch đại các thông tin truyền tới trung tâm não cao hơn. Hai tác động của sự nhạy cảm hoá là tạo chứng tăng cảm đau thứ cấp và đau quy chiếu (referred pain). Chứng tăng cảm đau thứ cấp là đáp ứng tăng với kích thích gây đau tại vùng tác động từ sự thay đổi thần kinh trung ương. Điều này ngược lại với chứng tăng cảm đau sơ cấp, khi ngưỡng đau giảm là kết quả của sự nhạy cảm hoá của các nơ ron ngoại biên. Chứng tăng cảm đau thứ cấp có thể cảm nhận ở vùng nông (lợi hoặc da) hoặc ở các cấu trúc sâu (cơ hoặc răng).
Thuật Ngữ
Nhìn chung, quá trình nghiên cứu và các con đường mới khi nhìn nhận đau khiến thuật ngữ thay đổi. Điều này dẫn tới một số bối rối, đặc biệt khi các thuật ngữ cũ còn được sử dụng. Do đó, chúng tôi giới thiệu một số định nghĩa mới của một số thuật ngữ cơ bản và tổng quan về các thuật ngữ được nhắc đến trước đó.
Các Dạng Đau :
-Đau
Là một cảm giác và một trải nghiệm cảm xúc khó chịu kết hợp với tổn thương mô hiện có hoặc tiềm tàng hoặc được miêu tả như một số tổn thương.
-Cơn Đau Nhạy Cảm
Cơn đau xuất hiện khi kích hoạt các cơ quan nhạy cảm
– Cơn Đau Thần Kinh
Cơn đau xuất hiện là hậu quả trực tiếp của một tổn thương hoặc một bệnh lý tác động lên hê thống cảm giác,
– Nhạy Cảm Hóa Ngoại Biên
Sự tăng đáp ứng và giảm ngưỡng của các cơ quan nhận cảm đối với kích thích
– Nhạy Cảm Hóa Trung Tâm
Sự tăng đáp ứng các nơ ron nhận cảm trong hệ thống thần kinh trung ương so ở trạng thái bình thường hoặc có thông tin tới dưới ngưỡng đến
– Đau Lạc Vị
Bất cứ cơn đau nào được cảm nhận ở nơi khác với nguồn gốc của nó được gọi là đau lạc vị. Có 3 dạng đau lạc vị: quy chiếu, trung tâm và chiếu.87 Đau quy chiếu là cơn đau được cảm nhận tại một vùng được phân bố bởi dây thần kinh khác với dây dẫn truyền cơn đau ban đầu. Đau quy chiếu không tạo ra bởi các kích thích tại vùng cảm nhận đau; hơn nữa, nó có thể xuất hiện bởi sự thể hiện nguồn gốc đầu tiên của cơn đau (Hình 3-3). Thêm vào đó, cơn đau quy chiếu không thể ngưng trừ khi gây tê được nguồn gốc chính của nó. Cơn đau quy chiếu thường xuất hiện ở dạng phiến (Hình 3-4). Điều này do các cơ quan nhận cảm ngoại vi đi vào các bó sinh ba theo dạng phiến.Do đó có nhiều dạng quy chiếu chung trên mặt. Bên cạnh đó, cơn đau quy chiếu thường hướng về phía đầu hoặc hướng lên trên. Trên lâm sàng điều này rất hiển nhiên khi đau từ răng hàm lớn hàm dưới lại gây cảm giác ở các răng hàm lớn hàm trên, đối diện với với các răng cửa hoặc răng hàm nhỏ.