Tóm tắt

Tăng trưởng kinh tế ấn tượng, mở rộng quy mô dân số và đô thị hóa mạnh mẽ đang là bức tranh về Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong thời gian qua. Bối cảnh đó đã đặt hệ thống QLCTRSHĐT đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách trước áp lực phải quản lý khối lượng chất thải ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hại. Nghiên cứu đã nhận diện và phác họa toàn cảnh hiện trạng QLCTRSHĐT ở thành phố Hà Nội qua 4 phân đoạn: thu gom, vận chuyển, xử lý và tái chế dưới góc nhìn cấu trúc thị trường. Trong đó, đặc điểm của các chủ thể tham gia, rào cản thị trường và kết quả thực thi ở từng phân đoạn được lựa chọn và phân tích một cách chi tiết. Trên cơ sở này, một số khuyến nghị chính sách được gợi mở để nâng cao hiệu quả, chất lượng và tính bền vững cho dịch vụ QLCTRSHĐT ở thành phố Hà Nội nói riêng và các đô thị khác nói chung.

Từ khóa: chất thải rắn, chất thải rắn sinh hoạt đô thị, quản lý chất thải rắn.

1. Bối cảnh nghiên cứu

Chất thải rắn (CTR – Solid Waste) là một bộ phận tất yếu, ‘đồng hành’ với quá trình sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển, chất thải rắn sinh hoạt đô thị (CTRSHĐT- Municipal Solid Waste) ngày càng tăng nhanh cả về khối lượng phát sinh và mức độ nguy hại. Phát triển kinh tế, gia tăng dân số và đô thị hóa mạnh mẽ được xem là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng này (UNEP, 2005). Năm 2016, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) trên cả nước là 24.7 triệu tấn/ năm. Tại các vùng đô thị, nơi chiếm khoảng 30% dân số cả nước, mỗi năm phát sinh gần 15 triệu tấn CTRSHĐT (Bộ TN&MT, 2017). Trong bối cảnh đó, quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị (QLCTRSHĐT) trở thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong hệ thống quản lý môi trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống này đang thực sự gặp nhiều khó khăn do sự hữu hạn về công nghệ, thiết bị, nguồn vốn và nhân lực (Bộ TN&MT, 2011). Vì vậy, khả năng cung cấp dịch vụ và kết quả hoạt động QLCTRĐT còn khá khiêm tốn. Tại các đô thị, khoảng 83 – 85% lượng chất thải phát sinh được thu gom, còn lại 15 – 17% CTR được thải bỏ ra môi trường, vứt vào bãi đất, ao hồ hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ xử lý CTRSHĐT phổ biến là chôn lấp, ủ phân hữu cơ và đốt. Tại khu vực đô thị, tỷ lệ CTRSH được chôn lấp trực tiếp khoảng 34%. Phần lớn các bãi chôn lấp tiếp nhận CTRSH chưa được phân loại, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm nhiều diện tích đất, phát sinh lượng lớn nước rỉ rác. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã và đang là nguồn gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, sinh thái và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, hoạt động sản xuất của cộng đồng xung quanh (Bộ TN&MT, 2017). Những chỉ báo không mấy khả quan về kết quả QLCTRSHĐT đang đặt ra những yêu cầu cấp bách cần thay đổi cách đánh giá hệ thống QLCTRSHĐT. Đã đến lúc, dịch vụ QLCTRSH cần phải được xem xét như một hàng hóa công cộng đặc biệt mà ở đó việc cung ứng hàng hóa này phải được đa dạng hóa bởi nhiều chủ thể với chất lượng cung ứng tốt hơn và hiệu quả hơn. Để đạt mục tiêu này, các phân tích về cấu trúc thị trường của dịch vụ QLCTRSHĐT là hết sức cần thiết nhằm đề xuất các giải pháp vận hành và hoàn thiện dịch vụ QLCTRSHĐT theo hướng bền vững.

By Hà Phương

Với kinh nghiệm trên 7 năm trong lĩnh vực làm đẹp mình tạo nên EzBeauty là website chia sẻ kiến thức và thông tin cho mọi người!